Mô hình mẫu cho công tác nuôi con nuôi – từ thách thức ở địa phương đến giải pháp mang tính Quốc gia
Bình Dương, trung tâm công nghiệp với nhiều lao động ngoại tỉnh, đang đối mặt với thách thức trong công tác nuôi con nuôi, khi đang chăm sóc 476 trẻ em tại 12 cơ sở trợ giúp xã hội. Chỉ 1/12 cơ sở giải quyết được đầy đủ thủ tục nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, cho thấy khoảng cách lớn giữa nhu cầu và khả năng đáp ứng. Các khó khăn bao gồm xác minh nguồn gốc, lấy ý kiến thân nhân, thiếu danh mục bệnh lý, và hạn chế nguồn lực. Bình Dương đề xuất hoàn thiện khung pháp lý, tăng phối hợp liên ngành, xây dựng đội ngũ chuyên gia, và ứng dụng công nghệ, tiên phong cải cách thủ tục nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
1. Trẻ em Bình Dương - Nhu cầu mái ấm gia đình trong bối cảnh công nghiệp hóa
Tỉnh Bình Dương, với vị thế là một trong những trung tâm công nghiệp hàng đầu Việt Nam, thu hút hàng triệu lao động ngoại tỉnh từ khắp các tỉnh thành đến sinh sống và làm việc. Đặc thù dân nhập cư không chỉ mang lại sự phát triển kinh tế cho tỉnh mà còn đặt ra nhiều thách thức trong công tác quản lý xã hội, đặc biệt là việc chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Theo thống kê năm 2024, toàn tỉnh hiện có 476 trẻ em đang được nuôi dưỡng tại 12 cơ sở trợ giúp xã hội, bao gồm trẻ mồ côi cha mẹ, trẻ bị bỏ rơi, trẻ khuyết tật và trẻ mắc bệnh hiểm nghèo. Tuy nhiên, số lượng trẻ được giải quyết làm con nuôi, cả ở trong nước và có yếu tố nước ngoài, còn rất hạn chế, với chỉ 1/12 cơ sở trợ giúp xã hội báo cáo đã thực hiện được việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài[1]. Sự chênh lệch này phản ánh khoảng cách rất lớn giữa nhu cầu thực tế và khả năng đáp ứng của hệ thống quản lý nhà nước về nuôi con nuôi ở thời điểm hiện tại.
Trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, tỉnh Bình Dương đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Từ khi Luật Nuôi con nuôi (2010) và Công ước La Hay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế (có hiệu lực tại Việt Nam từ 01/02/2012) được triển khai, tỉnh đã giải quyết được 136 trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, bao gồm 112 trường hợp trước khi Nghị định 24/2019/NĐ-CP có hiệu lực (Nghị định có hiệu lực từ tháng 4/2019) và 24 trường hợp cho trẻ sau đó. Chỉ riêng đối với quốc gia Hoa Kỳ, đã có 8 trường hợp trẻ em cần có các nhu cầu đặc biệt, trẻ từ 5 tuổi trở lên hoặc nhóm anh chị em ruột đã được giải quyết thông qua Chương trình nuôi con nuôi đặc biệt. Các trẻ này thường thuộc các nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội như trẻ mồ côi cha mẹ, trẻ bị bỏ rơi, hoặc trẻ mắc bệnh hiểm nghèo cần chăm sóc y tế đặc biệt, thể hiện ý nghĩa nhân văn sâu sắc của công tác nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Công tác nuôi con nuôi không chỉ là trách nhiệm pháp lý của các cơ quan quản lý nhà nước mà còn là hành trình mang lại cơ hội cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được sống trong môi trường mái ấm gia đình yêu thương. Đây là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc “lợi ích tốt nhất cho trẻ em” theo Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em (UNCRC). Tại tỉnh Bình Dương, việc đảm bảo quyền được sống trong môi trường gia đình, được chăm sóc, dạy dỗ và phát triển toàn diện mọi kỹ năng cho trẻ em là ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên, các khó khăn về thủ tục hành chính, nguồn lực tài chính, và trong công tác phối hợp liên ngành đang là cản trở của tiến trình này, nên đòi hỏi những giải pháp cải cách toàn diện và đồng bộ.
2. Khung pháp lý và quy trình thực hiện
Công tác nuôi con nuôi tại tỉnh Bình Dương được thực hiện dựa trên một khung pháp lý chặt chẽ, bao gồm hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và quy định cụ thể, bao gồm:
- Luật Nuôi con nuôi năm 2010: Là nền tảng pháp lý, quy định rõ các nguyên tắc, điều kiện, thủ tục và trách nhiệm của các bên liên quan trong việc nuôi con nuôi. Luật nhấn mạnh đến việc đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho trẻ, tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ và phòng ngừa các hành vi vi phạm như bắt cóc, mua bán trẻ em.
- Công ước La Hay 1993: Tăng cường thực hiện Điều 21 UNCRC thông qua các biện pháp, trình tự và thủ tục cụ thể, đảm bảo nuôi con nuôi quốc tế được thực hiện minh bạch, tôn trọng quyền trẻ em và phù hợp với đặc điểm văn hóa, xã hội của trẻ.
- Nghị định 24/2019/NĐ-CP ngày 05/03/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi: Hướng dẫn chi tiết Luật Nuôi con nuôi, đặc biệt quy định về các trường hợp nhận đích danh đối với trẻ khuyết tật hoặc trẻ mắc bệnh hiểm nghèo, tạo cơ sở pháp lý để các cơ sở trợ giúp xã hội lập danh sách trẻ đủ điều kiện cho làm con nuôi.
- Chỉ thị số 03/CTTTg ngày 19/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác giải quyết việc nuôi con nuôi trong tình hình mới.
- Quyết định số 2759/QĐ-UBND ngày 21/9/2020 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương: Ban hành Quy chế phối hợp liên ngành giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trên địa bàn tỉnh, đảm bảo sự thống nhất với Nghị định 24/2019/NĐ-CP và hướng dẫn của Bộ Tư pháp.
- Quyết định số 788/QĐ-UBND ngày 26/3/2021 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương: Công bố thủ tục hành chính thuộc phạm vi quản lý của Sở Tư pháp, thẩm quyền của UBND cấp huyện và UBND cấp xã, đảm bảo tính minh bạch và công khai trong quá trình giải quyết hồ sơ nuôi con nuôi.
Quy trình đăng ký nuôi con nuôi tại Bình Dương tuân thủ nghiêm ngặt các quy định pháp luật, với nguyên tắc bổ trợ ưu tiên chăm sóc thay thế trong nước trước khi xem xét nuôi con nuôi quốc tế. Quy trình này bao gồm hai thủ tục hành chính chính:
- Thủ tục giới thiệu trẻ em: Sở Tư pháp thông báo tìm gia đình thay thế trên website trong thời hạn 60 ngày. Hết thời hạn, nếu không có người trong nước đến làm thủ tục nhận nuôi, danh sách trẻ sẽ được gửi đến Cục Con nuôi – Bộ Tư pháp để thông báo trên phạm vi toàn quốc. Sau đó, trẻ đủ điều kiện sẽ được giới thiệu làm con nuôi có yếu tố nước ngoài thông qua Hội đồng liên ngành theo Quyết định số 2759/QĐ-UBND, với sự tham gia của lãnh đạo UBND tỉnh, Văn phòng UBND tỉnh, Sở Tư pháp, Sở Y tế, Sở Nội vụ, Công an tỉnh, và đại diện các cơ sở nuôi dưỡng.
- Thủ tục giải quyết đích danh: Áp dụng cho trẻ khuyết tật hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, không cần thực hiện các bước như tìm gia đình thay thế ở trong nước, nhưng vẫn phải xác minh rõ, chính xác nguồn gốc và lấy ý kiến cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ.
Các thủ tục nuôi con nuôi được đăng công khai trên cổng Dịch vụ công của tỉnh, cổng Dịch vụ công quốc gia, tại bộ phận “một cửa” của Sở Tư pháp, UBND cấp huyện, UBND cấp xã, và trên website của Sở Tư pháp. Điều này đã đảm bảo tính công khai, minh bạch, thuận tiện về khả năng tiếp cận thông tin của người dân, đồng thời cũng tạo điều kiện trong công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và đánh giá quá trình thực hiện.
3. Thách thức trong công tác nuôi con nuôi tại tỉnh Bình Dương - Từ thủ tục đến nguồn lực
Mặc dù đã có khung pháp lý với quy trình công khai, minh bạch, công tác nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Bình Dương vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là trong bối cảnh địa phương có đông người dân lao động nhập cư:
- Xác minh nguồn gốc trẻ em: Đặc thù là dân nhập cư nên việc xác minh thông tin cha mẹ hoặc người giám hộ của trẻ bị bỏ rơi thường gặp nhiều trở ngại. Nhiều trường hợp cha mẹ khai thông tin không chính xác, không có địa chỉ rõ ràng, hoặc đã rời khỏi địa phương từ lâu. Ví dụ, một số bà mẹ đơn thân bỏ con tại bệnh viện sau khi sinh và cung cấp thông tin sai lệch, khiến cơ quan công an không thể xác định được danh tính. Quá trình xác minh qua cơ quan công an tại nơi cha mẹ đăng ký thường trú thường kéo dài quá thời hạn 30 ngày làm việc, do phụ thuộc vào sự phối hợp trong công tác của các địa phương khác. Điều này đã làm chậm lại tiến trình giải quyết hồ sơ và ảnh hưởng đến quyền lợi của trẻ, đặc biệt là đối với những trẻ em cần có sự can thiệp y tế khẩn cấp để bảo đảm sức khỏe, tín mạng.
- Lấy ý kiến thân nhân: Theo Luật Nuôi con nuôi, việc nhận con nuôi phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ. Tuy nhiên, nhiều trường hợp cha mẹ không có mặt tại nơi cư trú, không thể liên lạc, hoặc có sự thay đổi ý kiến về việc cho con làm con nuôi (có sự đồng ý ban đầu nhưng sau đó phản đối hoặc ngược lại). Đối với các trường hợp cha mẹ ở xa tỉnh Bình Dương, cơ quan chức năng (Sở Tư pháp) phải gửi văn bản đề nghị phối hợp với địa phương khác, nhưng việc này rất khó thực hiện do thiếu quy định pháp luật cụ thể về hỗ trợ lấy ý kiến thân nhân. Sự thiếu hợp tác từ thân nhân cũng có thể làm kéo dài thời gian xử lý hồ sơ, ảnh hưởng đến quyền được sống trong môi trường mái ấm gia đình của trẻ.
- Thiếu danh mục bệnh lý cụ thể: Nghị định 24/2019/NĐ-CP quy định trẻ khuyết tật hoặc mắc bệnh hiểm nghèo đủ điều kiện nhận đích danh, nhưng chưa được liệt kê chi tiết các bệnh lý như bệnh về tim, máu, hoặc các khuyết tật cần điều trị khẩn cấp hoặc cả đời. Ví dụ, các bệnh lý như suy tim, suy thận, rối loạn đông máu, hoặc khuyết tật phức tạp không được định nghĩa rõ ràng, khiến các cơ sở trợ giúp xã hội gặp khó khăn trong việc lập danh sách và xác định đối tượng. Điều này dẫn đến sự chậm trễ trong việc tìm gia đình thay thế và đảm bảo quyền lợi cho trẻ.
- Gánh nặng tài chính: Chi phí khám chuyên sâu để xác định tình trạng bệnh lý của trẻ là gánh nặng lớn cho các cơ sở trợ giúp xã hội, đặc biệt khi nguồn lực tài chính hạn chế. Ví dụ, việc đưa trẻ đến bệnh viện tuyến trên để được bác sĩ chuyên khoa đánh giá đòi hỏi chi phí lớn, trong khi nguồn thu từ các khoản chi phí theo Nghị định 114/2016/NĐ-CP chưa đủ để đáp ứng. Gánh nặng tài chính này làm chậm tiến độ lập danh sách trẻ đủ điều kiện và ảnh hưởng đến quá trình tìm gia đình thay thế.
- Thiếu đội ngũ chuyên gia: Công ước La Hay yêu cầu sự tham gia của các chuyên gia tâm lý, xã hội, y tế và luật gia trong việc giới thiệu trẻ làm con nuôi có yếu tố nước ngoài, nhằm đánh giá sự phù hợp, điều kiện của cha mẹ nhận nuôi và nhu cầu của trẻ. Tuy nhiên, tỉnh Bình Dương hiện nay rất thiếu đội ngũ chuyên gia này, đặc biệt là các chuyên gia về tâm lý và y tế để đánh giá các trường hợp tâm sinh lý của trẻ mắc bệnh hiểm nghèo hoặc trẻ khuyết tật. Việc thiếu cơ chế sử dụng chuyên gia y tế để xác định tình trạng bệnh lý càng làm tăng khó khăn trong các trường hợp nhận trẻ đích danh. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng trong công tác đánh giá mà còn làm giảm tính phù hợp của việc ghép trẻ với gia đình nhận nuôi.
- Hạn chế của các cơ sở trợ giúp xã hội: Chỉ có 2/12 cơ sở trợ giúp xã hội tại tỉnh Bình Dương đã thực hiện việc lập hồ sơ giới thiệu trẻ làm con nuôi có yếu tố nước ngoài, đã cho thấy sự thiếu chủ động, có sự hạn chế về nguồn lực (cả về nhân sự và tài chính) và nhận thức của các cơ sở trợ giúp xã hội. Nhiều cơ sở thiếu nhân sự được đào tạo bài bản về quy trình nuôi con nuôi, đặc biệt là nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, dẫn đến việc triển khai công tác này trong thời gian vừa qua không đạt được hiệu quả như mong đợi.
- Phối hợp liên ngành chưa đồng bộ: Mặc dù Quyết định số 2759/QĐ-UBND đã thiết lập cơ chế phối hợp liên ngành, nhưng việc thực hiện giữa các cơ quan hữu quan như: Sở Tư pháp, Công an, Y tế, và Nội vụ vẫn chưa thực sự đạt hiệu quả. Ví dụ, việc xác minh nguồn gốc hoặc lấy ý kiến thân nhân ở các địa phương khác thường gặp trở ngại do thiếu sự phối hợp chặt chẽ và quy định cho sự phối hợp còn chưa rõ ràng, cụ thể. Điều này làm kéo dài thời gian xử lý hồ sơ và ảnh hưởng đến quyền lợi của trẻ.
- Nhận thức của cộng đồng và yếu tố văn hóa: Nhận thức của cộng đồng về ý nghĩa của việc nuôi con nuôi, đặc biệt là nhận nuôi trẻ khuyết tật hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, vẫn còn rất hạn chế. Điều này làm giảm số lượng gia đình trong nước sẵn sàng nhận nuôi, đẩy áp lực lên việc tìm gia đình thay thế cho trẻ ở nước ngoài. Đồng thời, việc hỗ trợ cha mẹ nuôi người nước ngoài, ở nước ngoài trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam cho trẻ còn chưa được triển khai đầy đủ, mạnh mẽ.
4. Kiến nghị giải pháp toàn diện để nâng cao hiệu quả nuôi con nuôi tại tỉnh Bình Dương
Để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc và nâng cao hiệu quả công tác nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại tỉnh Bình Dương, xin đề xuất các cách thức, giải pháp như sau:
- Hoàn thiện quy định xác minh nguồn gốc: Bộ Tư pháp cần ban hành quy định thời hạn cụ thể và cơ chế linh hoạt cho các trường hợp không thể xác minh thông tin thân nhân hoặc thông tin không chính xác. Ví dụ, đối với trẻ bị bỏ rơi tại bệnh viện mà không có thông tin cha mẹ, cần có quy trình rút ngắn thời gian xác minh, ưu tiên lợi ích tốt nhất của trẻ. Đề nghị bổ sung quy định về phối hợp liên địa phương, cho phép cơ quan công an hoặc chính quyền địa phương hỗ trợ trực tiếp trong việc lấy ý kiến thân nhân ở xa, đảm bảo thời gian xử lý không vượt quá 30 ngày.
- Cụ thể hóa tiêu chí nhận đích danh: Bộ Tư pháp cần phối hợp với Bộ Y tế ban hành danh mục chi tiết các bệnh lý về tim (ví dụ: suy tim, hở van tim), máu (ví dụ: rối loạn đông máu, bệnh bạch cầu), hoặc khuyết tật cần điều trị khẩn cấp hoặc cả đời. Danh mục này sẽ giúp các cơ sở trợ giúp xã hội dễ dàng xác định trẻ đủ điều kiện nhận đích danh, tránh sự chậm trễ trong lập danh sách. Đồng thời, cần xây dựng cơ chế hỗ trợ chi phí khám chuyên sâu, chẳng hạn thông qua quỹ bảo trợ trẻ em hoặc nguồn ngân sách nhà nước, để giảm gánh nặng tài chính cho các cơ sở.
- Tăng cường trong công tác phối hợp liên ngành: Bộ Tư pháp cần chỉ đạo tăng cường phối hợp giữa các cơ quan như: Công an, Y tế, Nội vụ, đặc biệt trong việc xác minh nguồn gốc và lấy ý kiến thân nhân. Cần kịp thời ban hành các quy định cụ thể về phối hợp liên địa phương, ví dụ: yêu cầu cơ quan công an tại các địa phương khác phản hồi trong thời hạn nhất định (từ 15 đến 20 ngày) để đảm bảo tiến độ xử lý hồ sơ của trẻ. Đồng thời, cần thiết lập một hệ thống thông tin liên ngành để chia sẻ cơ sở dữ liệu về trẻ em và thân nhân, giảm thiểu thời gian và chi phí xác minh.
- Xây dựng đội ngũ chuyên gia: Đề xuất Bộ Tư pháp phối hợp với các bộ - ngành, cơ quan liên quan nhằm xây dựng cơ chế mời gọi, trưng dụng, sử dụng đội ngũ chuyên gia tâm lý, xã hội, sức khỏe y tế và luật gia có nhiều kinh nghiệm để đánh giá điều kiện của cha mẹ nuôi có phù hợp với nhu cầu của trẻ. Cần tổ chức các chương trình tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ định kỳ, tập trung vào kỹ năng đánh giá tâm lý, xã hội và sức khỏe y tế của trẻ, cũng như quy định pháp luật liên quan đến nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Đồng thời, cần xây dựng một danh sách các chuyên gia có trình độ chuyên môn chuyên sâu, được cấp chứng nhận để hỗ trợ các địa phương như tỉnh Bình Dương trong việc đánh giá các trường hợp phức tạp.
- Khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở trợ giúp xã hội: Bộ Y tế, Bộ Nội vụ cần ban hành chính sách khuyến khích các cơ sở lập danh sách và giới thiệu trẻ làm con nuôi, chẳng hạn thông qua các chương trình khen thưởng hoặc hỗ trợ tài chính. Cần tổ chức các khóa đào tạo chuyên sâu cho nhân sự tại các cơ sở về quy trình nuôi con nuôi, đặc biệt là nuôi con nuôi nước ngoài. Đồng thời, cần thiết lập cơ chế giám sát và đánh giá hoạt động của các cơ sở để đảm bảo tính chủ động và trách nhiệm.
- Tăng cường công tác truyền thông, thông tin và hỗ trợ giao lưu văn hóa: Bộ Tư pháp cần phối hợp với các cơ quan truyền thông đẩy mạnh tuyên truyền về ý nghĩa của việc nuôi con nuôi, đặc biệt là nhận nuôi trẻ khuyết tật hoặc mắc bệnh hiểm nghèo. Cần có các chiến dịch thông tin, truyền thông đủ mạnh được triển khai rộng khắp trên nhiều nền tảng như: từ phát thanh - truyền hình, báo chí, đến mạng xã hội, nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng và khuyến khích các gia đình trong nước cùng tham gia. Đồng thời, cần hỗ trợ cha mẹ nuôi người nước ngoài trong việc chăm sóc và nuôi dạy trẻ, đặc biệt các cha mẹ đến từ các quốc gia đa văn hóa, đa sắc tộc, trong đó chú trọng việc giữ gìn bản sắc văn hóa - dân tộc Việt Nam cho trẻ thông qua các chương trình hướng dẫn, tài liệu học tập, giáo dục, và hoạt động giao lưu văn hóa – thể thao như các lễ hội truyền thống hoặc qua các lớp học tiếng Việt.
- Nội luật hóa Công ước La Hay của Liên hợp quốc: Đề nghị Bộ Tư pháp tiếp tục nghiên cứu, nội luật hóa Công ước La Hay theo hướng thiết lập hệ thống các dịch vụ hỗ trợ trước, trong và sau khi giải quyết việc nuôi con nuôi, nhất là trong công tác nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Hệ thống này cần bao gồm các dịch vụ tư vấn tâm lý, chăm sóc sức khỏe, y tế, hỗ trợ pháp lý, và theo dõi sau nhận con nuôi để đảm bảo trẻ được chăm sóc tốt nhất trong môi trường mái ấm gia đình mới. Cần xây dựng một cơ chế kiểm ta, giám sát quốc gia để đánh giá tính hiệu quả của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, đảm bảo quyền lợi và sự phát triển toàn diện của trẻ.
- Tăng cường các nguồn lực tài chính: Đề nghị xem xét bổ sung cơ chế tài chính hỗ trợ các cơ sở trợ giúp xã hội, đặc biệt trong việc thực hiện khám – chữa bệnh chuyên sâu, xác minh nguồn gốc, và các hoạt động liên quan đến nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Cần hướng dẫn cụ thể về việc sử dụng nguồn thu chi phí theo Nghị định 114/2016/NĐ-CP, đồng thời xem xét tăng ngân sách từ các quỹ bảo trợ trẻ em hoặc các chương trình hỗ trợ xã hội để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả.
- Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu số và ứng dụng khoa học công nghệ bổ trợ: Đề xuất Bộ Tư pháp phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, cho phép việc lưu trữ và chia sẻ thông tin về trẻ em, cha mẹ đẻ, và cha mẹ nuôi. Hệ thống này sẽ giúp giảm thời gian xác minh, tăng độ chính xác của nguồn thông tin, và hỗ trợ trong quá trình ghép trẻ với gia đình phù hợp. Đồng thời, cần ứng dụng khoa học công nghệ số, như Dịch vụ công trực tuyến, để đơn giản hóa thủ tục hành chính và nâng cao hiệu quả xử lý nhanh, chính xác hồ sơ.
5. Cam kết của tỉnh Bình Dương - Mang lại tương lai tươi sáng cho trẻ em
Bình Dương, với đặc thù là trung tâm công nghiệp của cả nước với dân nhập cư đông đúc, đóng vai trò tiên phong trong việc thử nghiệm và đề xuất các giải pháp cải cách chính sách nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Những thách thức tại Bình Dương, như xác minh nguồn gốc trẻ em trong bối cảnh dân nhập cư hay công tác phối hợp liên ngành, cũng là những vấn đề chung của nhiều địa phương phát triển công nghiệp khác như Đồng Nai, Long An, TP.HCM…. Do đó, các kinh nghiệm và bài học ở tỉnh Bình Dương có thể được đút kết từ thực tiễn công tác quản lý và nhân rộng điển hình, đóng góp vào việc hoàn thiện khung pháp lý và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về nuôi con nuôi trên phạm vi cả nước.
Bình Dương đã thể hiện vai trò dẫn đầu thông qua việc ban hành các quy chế phối hợp liên ngành (Quyết định số 2759/QĐ-UBND) và công khai thủ tục hành chính (Quyết định số 788/QĐ-UBND), tạo mô hình mẫu cho các địa phương khác có thể học tập để triển khai ở địa phương mình. Đồng thời, với số lượng lớn trẻ em cần hỗ trợ (476 trẻ tại 12 cơ sở), Bình Dương có cơ hội thử nghiệm các giải pháp mới, như ứng dụng khoa học công nghệ số, cơ sở dữ liệu số trong quản lý hồ sơ nghiệp vụ hay xây dựng đội ngũ chuyên gia. Những giải pháp này không chỉ giúp tháo gỡ khó khăn tại địa phương mà còn cung cấp dữ liệu thực tiễn để các cơ quan Trung ương hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật đảm bảo quyền lợi trẻ em trên phạm vi toàn quốc.
Kết luận
Công tác nuôi con nuôi tại tỉnh Bình Dương là một hành trình nhân văn, mang lại cơ hội cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được sống và phát triển trong môi trường mái ấm gia đình yêu thương. Tuy nhiên, những thách thức về xác minh nguồn gốc trẻ em, lấy ý kiến thân nhân, thiếu danh mục bệnh lý cụ thể, gánh nặng tài chính, thiếu đội ngũ chuyên gia, và hạn chế của các cơ sở trợ giúp xã hội đang cản trở tiến trình này. Để vượt qua các khó khăn này, tỉnh Bình Dương kêu gọi sự hỗ trợ từ Bộ Tư pháp, Bộ Y tế, Bộ Nội vụ, cùng các cơ quan liên quan trong việc hoàn thiện khung pháp lý, khung chính sách nhằm tăng cường trong công tác phối hợp liên ngành, xây dựng đội ngũ chuyên gia, và hỗ trợ nguồn lực tài chính và văn hóa.
Những nỗ lực này không chỉ đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho trẻ em mà còn góp phần xây dựng một xã hội nhân ái, nơi mọi trẻ em đều có cơ hội lớn lên trong tình yêu thương, đùm bộc và sự chăm sóc của mái ấm gia đình. Tỉnh Bình Dương cam kết tiếp tục tiên phong trong việc triển khai các giải pháp đổi mới, đồng hành cùng cả nước để mang lại tương lai tươi sáng hơn cho những mầm non tương lai của đất nước./.
Nguyễn Quốc Trí
PCVP – Văn phòng Đoàn ĐBQH & HĐND tỉnh Bình Dương
[1] Báo cáo số 2737/STP-HCTP&QLXLVPHC, ngày 30/10/2024 của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương.